Nếu như bạn đang cân nhắc 1 chiếc SUV 7 chỗ mà “vô tình” quên mất Mitsubishi Pajero Sport thì đó cũng là điều dễ hiểu. Đây là sân chơi của Toyota Fortuner và Ford Everest. Thậm chí, nếu tính thêm những chiếc crossover với khung liền thân vỏ thì Hyundai Santa Fe hay Mazda CX8 cũng là những lựa chọn rất được lòng khách hàng Việt hiện nay. Liệu điều đó có nghĩa rằng bạn có thể bỏ hẳn mẫu SUV 7 chỗ của Mitsubishi ra khỏi tâm trí? Không hề.
Khi phiên bản mới của Pajero Sport mới ra mắt tại thị trường Việt Nam, thứ duy nhất khiến mẫu xe này không chiếm được thị phần lớn hơn chính là giá bán. Những chiếc Pajero Sport máy xăng V6 3.0 với hàng loạt công nghệ vận hành và an toàn vượt trội so với phân khúc, nhưng việc bỏ ra khoảng 1,5 tỷ đồng cho 1 chiếc SUV Nhật là điều không phải ai cũng dám thực hiện. Dù vậy, phiên bản máy dầu ra đời đã khiến dòng xe Pajero Sport có mức giá cạnh tranh hơn khi so với 2 đối thủ lớn nhất: Everest và Fortuner. Cụ thể, phiên bản số tự động một cầu của Pajero Sport trong bài viết hôm nay có giá niêm yết 1,062 tỷ đồng, chỉ hơn Everest Ambiente 2.0L AT 4×2 10 triệu đồng nhưng rẻ hơn Toyota Fortuner 2.4 AT 4X2 34 triệu đồng. Cần lưu ý là tôi chỉ so sánh giá hãng sản xuất công bố, không tính đến mức giá khuyến mại mà từng đại lý đang áp dụng.
Thiết kế nam tính
Nếu chỉ dùng 1 tính từ duy nhất để tóm gọn thiết kế ngoại thất của Pajero Sport thì tôi không ngần ngại dùng từ “nam tính”. Trong khi Ford Everest mang dáng hình của 1 lực sĩ cơ bắp cởi trần, cố tình khoe mẽ những cơ bắp cuồn cuộn, và Fortuner lại đậm chất thời trang thì Pajero Sport chẳng khác nào 1 người đàn ông mặc vest. Nhìn tổng thể, Pajero Sport không hề kém cạnh Everest trong việc tạo nên ấn tượng về 1 chiếc SUV mạnh mẽ, nam tính nhưng mẫu xe của Mitsubishi có thêm các chi tiết mang lại vẻ hiện đại và lịch thiệp – thứ Everest không có.
Đó là phần đầu xe có không ít điểm nhấn thú vị. Cụm đèn pha có thiết kế gắn liền với lưới tản nhiệt Dynamic Shield, tạo nên một chiếc khiên vững chãi đúng như tên gọi của ngôn ngữ thiết kế chủ đạo mà Mitsubishi áp dụng trên mọi sản phẩm của họ.
Pajero Sport phiên bản máy dầu chỉ được trang bị đèn pha halogen dạng thấu kính thay vì đèn LED như bản máy xăng V6 nhưng đây cũng là sự “cắt xén” cũng được áp dụng trên các đối thủ của nó. Các dải crôm cỡ lớn được kéo dài xuống tấm cản trước, tạo ra 1 chữ X rất nổi bật ở đầu xe.
Phần thân xe Pajero Sport cũng sở hữu những chi tiết thường thấy trên các mẫu SUV hầm hố khác. Đó là gương chiếu hậu mạ crôm tích hợp đèn xi-nhan, những đường gân đậm nét ở các vòm bánh xe, bậc bước chân lên xe ốp sáng màu v.v.. Với chiếc Pajero Sport này, có 2 điểm nhấn mà tôi muốn đề cập. Đầu tiên là khung cửa kính có thiết kế vuốt lên cực “gắt” ở khu vực gần đuôi xe. Thiết kế kiểu này tạo ấn tượng xe cao ráo hơn nhiều so với con số thực tế, vì nó hướng sự chú ý của người nhìn lên phần trên của chiếc xe. Đánh mắt theo viền mạ crôm chạy dọc khung kính, ta sẽ thấy tiếp phần cánh gió có độ dốc trùng với đường viền kính. Cá nhân tôi rất thích những chiếc xe có thiết kế chỉn chu, “có đầu có cuối” như thế này. Ông Ian Callum từng nói: “Một thiết kế tối phải có điểm đầu và điểm cuối”.
Điểm nhấn thứ hai ở phần thân xe là bộ la-zăng của Mitsubishi Pajero Sport. Mẫu SUV này có la-zăng 18 inch với thiết kế đa chấu, phối 2 màu đối lập rất đẹp mắt. Nhìn vào bộ la-zăng này, ít ai nghĩ đây là 1 phiên bản “thiếu”, trong khi nhìn vào la-zăng 17 inch của các phiên bản tương đương của Ford Everest và Toyota Fortuner thì cái sự “thiếu” hiển hiện rõ ràng.
Phần đuôi xe cũng là điểm nhấn khác biệt của Mitsubishi Pajero Sport. Thiết kế đèn LED hình dấu hỏi chạy dài theo chiều thẳng đứng là một chi tiết rất độc đáo và mang tính nhận diện thương hiệu tốt. Khi đi đường mà chỉ nhìn thoáng qua 1 chiếc xe nào có đèn LED thả dọc như thế này, tôi ngay lập tức nhận ra đó là Pajero Sport. Thiết kế này càng làm Pajero Sport trông cao ráo hơn, dù xét về chiều cao tổng thể, mẫu SUV của Mitsubishi thấp hơn đối thủ 1 chút. Xét về thông số tổng thể (dài x rộng x cao), Pajero Sport cũng gọn nhẹ hơn đối thủ (4.785 x 1.815 x 1.805 mm, chiều dài cơ sở 2.800 mm), điều nhiều khả năng sẽ khiến hàng ghế thứ 3 có ít không gian hơn Everest hay Fortuner.
Nội thất thực dụng
Đã đồng hành cùng cả phiên bản “thiếu” và “đủ” của Pajero Sport, tôi dễ nhận thấy sự khác biệt. Khá đáng tiếc khi ngoại thất của mẫu SUV này khỏa lấp sự “thiếu” khá trọn vẹn thì phần nội thất lại không được như vậy. Tuy nhiên, cũng phải nhận xét 1 cách công bằng rằng tất cả phiên bản tương đương của Fortuner và Everest cũng bị lược bớt trang bị so với phiên bản cao cấp nhất. Điều cần xét đến là những “bản thiếu” này hơn kém nhau ở điểm gì.
Hãy bắt đầu từ thứ đôi tay người lái chạm vào nhiều nhất: vô lăng. Về mặt thiết kế thì tất nhiên, mỗi người một cảm nhận. Cá nhân tôi đánh giá cao thiết kế của Mitsubishi Pajero Sport hơn là Everest hay Fortuner. Không chỉ đơn thuần là nó đẹp hơn mà vô lăng của Pajero Sport cũng mang thiết kế Dynamic Shield đặc trưng của hãng, với thiết kế tổng thể hình chữ X. Tôi rất có cảm tình với những hãng xe nào có “ngôn ngữ thiết kế” riêng và áp dụng được nó vào cả những chi tiết nội thất và ngoại thất.
Xét về mặt công năng thì tôi vẫn đánh giá cao vô lăng của Pajero Sport hơn: da bọc vô lăng mềm mại hơn, các nút bấm, phím gạt rất dễ làm quen và nhất là dù đây là bản “thiếu” nhưng Pajero Sport máy dầu vẫn có tính năng Ga tự động (Cruise Control), trong khi Everest và Fortuner bản tương đương không có. Chưa hết, lẫy chuyển số bằng kim loại gắn sau vô lăng cũng là trang bị độc đáo của Pajero Sport. Ford Everest chỉ có lẫy chuyển số trên cần số ở yên ngựa, trong khi lẫy chuyển số nhựa của Fortuner lại khá lỏng lẻo, không “đầm” khi sử dụng. Tất nhiên, với lực mô-men xoắn dồi dào của những động cơ dầu kể trên thì trên thực tế, ít khi người lái cần dùng tới lẫy chuyển số vô lăng.
Về thiết kế cụm đồng hồ, tôi thấy Ford Everest nổi trội hơn với thiết kế đồng hồ tốc độ dạng cơ ở giữa, kẹp hai bên là hai màn hình LCD có thể thay đổi nội dung hiển thị. Dù vậy, cụm đồng hồ của Pajero Sport cũng không kém cạnh về mặt hiển thị những nội dung cần thiết. Thiết kế của Pajero Sport lấy đèn nền màu trắng và các điểm nhấn màu đỏ, khá giống với cụm đồng hồ của những mẫu xe mang thiên hướng thể thao. Vạch ECO hiển thị mức độ tiết kiệm dầu của chiếc xe cũng rất hữu dụng. Chỉ cần liếc qua màu sắc của vạch hiển thị này là tôi đã biết cách chạy của mình đã tối ưu hay chưa.
Nhìn sang khu vực bảng táp lô, dễ thấy cả 3 mẫu xe Pajero Sport, Everest và Fortuner đều có thiết kế lấy màn hình hiển thị là tâm điểm. Về độ thân thiện của giao diện màn hình, tôi đánh giá Ford Everest tốt nhất, theo sau là Pajero Sport rồi đến Toyota Fortuner. Về độ sắc nét và độ mượt mà, Pajero Sport vẫn trội hơn. Nhìn xuống khu vực cần số, ta cũng thấy mẫu SUV của Mitsubishi có phanh tay điện tử trong khi các đối thủ chỉ có phanh tay cơ. Tuy nhiên, Pajero Sport có rất nhiều nút trống ở khu vực sau cần số và tôi không thích điều này. Thực tế mà nói, các hãng khác cũng buộc phải giảm bớt trang bị cho các phiên bản thấp cấp nhưng cách làm của Mitsubishi là một điểm trừ, ít nhất là về mặt thị giác.
Về không gian khoang cabin, đối với mọi mẫu SUV 7 chỗ thì hiển nhiên là 5 người lớn sẽ ngồi rất thoải mái ở 2 hàng ghế đầu. Sự khác biệt nằm ở không gian hàng ghế thứ 3. Với Mitsubishi Pajero Sport, hàng ghế thứ 3 đủ rộng để 2 người lớn ngồi tương đối vừa vặn trong những chuyến đi ngắn. Nếu di chuyển hơn 2 tiếng đồng hồ thì sự thoải mái tất nhiên sẽ giảm.
Điều tôi thích với hàng ghế này là ô cửa sổ dành cho người ngồi sau tương đối rộng và lưng ghế ngả được rất nhiều. Tuy nhiên, điểm yếu chung của mọi mẫu xe cùng phân khúc là nếu đi đủ 7 người thì khoang hành lý sẽ không chưa được nhiều đồ, nên với Pajero Sport hay cả Everest hay Fortuner, di chuyển với 5 người lớn và hành lý sẽ thực tiễn nhất, chỉ nên chở 7 người khi đi gần và không cần nhiều đồ đạc.
Về trang bị an toàn, Mitsubishi Pajero Sport không mấy nổi bật khi so với đối thủ, điển hình là số lượng túi khí. Pajero Sport chỉ có 2 túi khí, trong khi 2 đối thủ chính là Everest và Fotuner đều có 7 túi khí. Dù vậy, mẫu SUV của Mitsubishi vẫn được trang bị đủ các hệ thống an toàn chủ động như ABS, EBD, BA, Cân bằng điện tử và Kiểm soát lực kéo ASTC và Khởi hành ngang dốc HSA. Mitsubishi Pajero Sport tiếp tục thiếu đi cảm biến lùi và camera lùi. Dù đây là những thiết bị có thể được độ thêm dễ dàng nhưng đó vẫn là điểm thiếu sót của Pajero Sport khi so với đối thủ cùng phân khúc. Tuy nhiên, những thứ “đồ chơi” này không quan trọng bằng những thứ gần như không thể độ thêm, hoặc tốn rất nhiều tiền. Đó là những chi tiết cơ khí tạo nên “chất Mitsubishi”: động cơ, hộp số, khung gầm.
Trái tim đắt giá nhất phân khúc
Động cơ luôn là bộ phận quan trọng nhất đối với bất kỳ phương tiện cơ giới nào. Động cơ của xe hơi được ví như trái tim, là nguồn sức mạnh tạo ra động năng để chiếc xe hoạt động. Đối với một chiếc xe bán tải, vai trò của động cơ lại càng thêm phần quan trọng vì xe bán tải không chỉ phải chở hành khách và trọng lượng của chính bản thân nó mà còn tải hàng nặng. Tại Việt Nam, những chiếc xe bán tải thường xuyên phát huy trọn công năng chở hàng của chúng và việc phải chở cả tấn hàng trên thùng xe không phải là hiếm. Do đó, động cơ luôn là bộ phận mà khách hàng Việt Nam quan tâm nhất khi chọn mua xe bán tải.
Mitsubishi Pajero phiên bản máy dầu sở hữu một khối động cơ có hàm lượng công nghệ rất cao. Động cơ dầu 4 xy-lanh tên mã 4N15 của Pajero Sport không chỉ nhẹ hơn các động cơ đối thủ mà còn sở hữu nhiều ưu điểm khác. Động cơ có dung tích 2.4 lít, sản sinh công suất tối đa 181 mã lực tại tua máy 3.500 vòng/phút, lực mô-men xoắn cực đại 430 Nm tại tua máy 2.500 vòng/phút. Những thông số này mạnh hơn hẳn so với Toyota Fortuner với chỉ 148 mã lực, 400 Nm và nhỉnh hơn 1 chút so với Everest phiên bản 2.0 tăng áp đơn, sở hữu 180 mã lực và 420 Nm. Tuy nhiên, ưu điểm của động cơ Pajero Sport không chỉ dừng lại ở công sấut cao mà còn là trọng lượng nhẹ và sự linh hoạt khi hoạt động ở cả dải vòng tua thấp và cao.
Phần thân động cơ 4N15 được đúc hoàn toàn bằng hợp kim nhôm giúp giảm trọng lượng đến 30 kg so với vật liệu gang truyền thống của động cơ Everest hay Fortuner. Điều này không những giúp giảm trọng lượng xe mà còn phân bổ trọng lượng đều hơn giữa 2 trục bánh xe, mang lại cảm giác lái linh hoạt, bớt nặng đầu xe hơn và giúp xe vào cua an toàn hơn. Xét 1 cách khái quát, đúc thân máy bằng nhôm thay vì gang thép sẽ đội chi phí sản xuẩn hơn gấp đôi, nhưng người tiêu dùng chọn Mitsubishi Pajero Sport vẫn được sở hữu động cơ có thân máy nhôm với mức giá rất hợp lý.
Sự ưu việt của động cơ dầu 2.4 lít của Mitsubishi Pajero Sport còn được thể hiện ở hệ thống van biến thiên MIVEC. Công nghệ van biến thiên không quá mới mẻ, riêng Mitsubishi đã thương mại hóa công nghệ này lần đầu tiên vào năm 1992 trên mẫu Mirage. Hiện nay, tất cả hãng xe đều đã áp dụng công nghệ van biến thiên trên các mẫu xe sử dụng động cơ xăng nhưng rất ít hãng áp dụng trên động cơ dầu. Mitsubishi tự hào là hãng xe thương mại đầu tiên trên thế giới áp dụng công nghệ này. Cho đến nay, Pajero Sport là chiếc SUV 7 chỗ duy nhất trong phân khúc sở hữu van nạp biến thiên MIVEC và đây là một lợi thế cạnh tranh quan trọng của Pajero Sport.
Mục tiêu của mọi hệ thống van biến thiên là khiến chiếc xe tiết kiệm nhiên liệu ở tốc độ thấp và mạnh mẽ ở tốc độ cao. Công nghệ van biến thiên truyền thống giúp tối ưu hiệu suất làm việc của động cơ bằng cách thay đổi thời gian mở van để thực hiện mục tiêu đó. Với các kỹ sư của Mitsubishi thì câu chuyện không chỉ dừng ở vậy. Ý tưởng đột phá đầu tiên mà họ đưa ra là áp dụng tỷ số nén rất thấp cho động cơ của Pajero Sport.
Các động cơ dầu thông thường sẽ có tỷ số nén vào khoảng 17:1 đến 18:1, với tỷ số nén cao này, động cơ sản sinh công suất mạnh hơn nhưng tỷ số nén cao cũng gây ra tình trạng thất thoát động năng ở chu kỳ nén, cũng như tăng nhiệt độ của chế hòa khí trong xy-lanh quá cao, dẫn đến tiêu hao nhiều nhiên liệu. Chưa hết, tỷ số nén cao tức là áp suất và nhiều độ cũng cao, khiến động cơ sản sinh nhiều khí thải Ni tơ ô-xít hơn. MIVEC cho động cơ diesel là giải pháp mà Mitsubishi đưa ra cho bài toán vừa đảm bảo công năng của động cơ, vừa giảm khí thải độc hại, vừa tiết kiệm nhiên liệu.
Để thực hiện những nhiệm vụ trên, Mitsubishi đã áp dụng tỷ số nén 15,5:1 cho động cơ 4N15. Toyota cũng áp dụng tỷ số nén tương tự nhưng họ đã hy sinh hiệu năng để đạt mức phát thải thấp và tiết kiệm nhiên liệu nên động cơ của Fortuner chỉ đạt công suất 148 mã lực, kém hơn 181 mã lực của Pajero Sport. Như vậy, các kỹ sư Mitsubishi đã làm thế nào để để không phải hy sinh hiệu năng mà vẫn tiết kiệm nhiên liệu và thân thiện với môi trường?
Họ đã áp dụng hệ thống van biến thiên MIVEC hiện đại nhất phân khúc. Điều đặc biệt của hệ thống MIVEC là hệ thống này không chỉ biến thiên thời gian mở van mà còn biến thiên biên độ mở của van xả (từ ngữ chuyên môn là variable valve timing và variable valve lift). Với kết cấu DOHC, mỗi xy lanh có 2 van nạp được điều khiển bởi các hệ thống con đội và đòn bẩy rất tinh xảo, tạo ra 3 độ đóng mở van Thấp, Trung Bình và Cao. Ở dải vòng tua máy thấp, cả 2 van nạp của 1 xy lanh được mở sớm hơn, trong đó 1 van duy trì độ mở Trung Bình, 1 van chuyển sang độ mở Thấp. Kiểu mở van như vậy sẽ khiến động cơ tiêu thụ rất ít nhiên liệu nhờ tỷ số nén thấp, chỉ 15,5:1, trong khi 1 van mở ít hơn sẽ tạo dòng khí xoáy giúp không khí và dầu trong buồng đốt được hòa trộn tơi hơn, cháy triệt để hơn. Kết quả là ta có một khối động cơ tiết kiệm nhiên liệu nhưng vẫn có đủ công suất để chiếc xe hoạt động tối ưu, đồng thời giảm phát thải khí ni tơ ô xít nhờ tỷ số nén thấp.
Ở vòng tua cao, cả 2 van nạp của mỗi xy lanh đều hoạt động ở chế độ mở lớn nhất nhằm phát huy tối đa công suất động cơ. Hai van nạp được điều khiển để mở lớn hơn và mở trong 1 khoảng thời gian dài hơn nhằm cung cấp đủ khí vào buồng đốt để động cơ phát huy trọn vẹn 181 mã lực và 430 Nm. Chế độ mở van tối đa này chỉ được kích hoạt khi vòng tua máy đạt trên 2.000 vòng/phút. Như vậy, với hệ thống van biến thiên MIVEC, ta có 1 khối động cơ tiết kiệm và thân thiện với môi trường nhưng cũng rất mạnh mẽ khi cần thiết.
Bên cạnh MIVEC, những công nghệ hiện đại khác mà khối động cơ 4N15 sở hữu là hệ thống phun dầu trực tiếp vào buồng đốt với áp suất rất cao, lên tới 29.000 PSI giúp nhiên liệu tơi hơn trong buồng đốt. Hệ thống tăng áp của động cơ Pajero Sport cũng rất đặc biệt với các cánh quạt biến thiên ở cả tuabin nhận khí xả và tua bin nén khí. Những động cơ diesel thông thường chỉ có tua bin nhận khí xả là có cánh quạt biến thiên. Việc bố trí cả cánh quạt biến thiên ở tua bin xả và nén khí của động cơ 4N15 giúp giảm cảm giác trễ tăng áp và tăng hiệu suất tận dụng luồng khí xả và hiệu suất nén khí. Cuối cùng là thiết kế đặt lệch trục khuỷu so với xy lanh nhằm tạo ra góc di chuyển hoàn toàn vuông góc của tay biên, giảm ma sát giữa pít-tông và thành xy-lanh để giảm nhiệt độ các linh kiện này và hạn chế hao tổn công suất cho ma sát.
Về lý thuyết, động cơ 4N15 của Pajero Sport vượt trội hoàn toàn so với đối thủ, vậy trải nghiệm thực tế thì sao? Ngay khi nổ máy, sự khác biệt đã rất rõ ràng. Đặt tay lên nắp capô, ta dễ dàng cảm nhận ngay sự êm ái của khối động cơ này so với đối thủ. Thông thường, động cơ dầu rung động rất mạnh khi nổ cầm chừng nhưng động cơ Pajero Sport có rung động ít như máy xăng! Đứng sau xe, tôi gần như không ngửi thấy mùi hôi, có nghĩa là khí thải của xe là khá sạch.
Khẽ đạp ga, Pajero Sport lướt đi nhanh chóng vì động cơ đạt mô-men xoắn lớn ở ngay vòng tua thấp và trọng lượng xe nhẹ nhất phân khúc, chỉ 1.940 kg. Nước ga đầu cực êm, êm hơn hẳn các xe máy dầu khác trong phân khúc, tiếng “rào rào” đặc trưng của máy dầu cũng gần như không thể nghe thấy từ ghế lái. Đó là do MIVEC, thiết kế trục khuỷu lệch tâm xy lanh và các nỗ lực giảm ma sát giữa các chi tiết động cơ. Không chỉ “bốc” mà động cơ này cũng rất êm ái. Ở tốc độ 60 km/h, độ ồn trung bình đo được chỉ là 49,5 dB, tức là còn êm hơn xe máy xăng! Độ ồn trung bình ở 80 km/h và 100 km/h là 58,4 và 68,9 dB – đều là những con số rất đáng khen. Khả năng cách âm của xe đến từ khung gầm, cửa và doăng cửa dày dặn và tất nhiên, có công lớn của một khối động cơ tĩnh lặng.
Chúng tôi chọn cung đường Hà Nội – Tam Đảo để đánh giá chiếc Pajero Sport máy dầu. Đường lên Tam Đảo đã được làm hoàn thiện nên không có cơ hội để chạy off-road trên cung đường này, nhưng những khúc cua tay áo với độ dốc trên 10 độ luôn là thử thách không nhỏ cho mọi chiếc xe. Trước địa hình này, chiếc Pajero Sport vẫn rất “lỳ lợm” – tức là động cơ không phải gào thét ồn ào để sản sinh đủ công suất để xe vượt dốc, cũng như xe không bị lắc ngang quá nhiều nhờ khung gầm và hệ thống treo tốt.
Cảm giác lái của Pajero Sport cũng là một thứ đáng khen ngợi. Xe có vô lăng trợ lực dầu với tỷ số truyền trung bình, không quá nhạy nhưng cũng không quá chậm (3,2 vòng hết lái trái – phải). Vô lăng dầu cho cảm giác đầm, chắc, phản hồi mặt đường khá tốt. Phản hồi mặt đường vừa là mặt lợi, vừa là hại. Hại ở chỗ: khi qua mố cầu, va chạm giữa lốp và mố cầu khiến tay lái bị giằng khá nhiều. Bạn cần lưu ý giữ chắc vô lăng khi qua chướng ngại vật. Cá nhân tôi thích cầm lái 1 chiếc xe có vô lăng trợ lực dầu khi phải bẻ cua liên tục.
Hộp số 8 cấp của Pajero Sport cũng là một điểm đáng khen với khả năng chuyển số đủ nhanh và các cấp số được phân bổ hợp lý. Kết thúc hành trình, chiếc Mitsubishi Pajero Sport chỉ tiêu thụ 8 lít dầu/100 km. Đây là mức tiêu thụ rất hợp lý vì chúng tôi đi đèo dốc và không ngại dồn số để phanh động cơ khi đổ đèo.
Kết luận
Mitsubishi Pajero Sport là một chiếc xe có thiết kế đẹp, giá bán hợp lý và khả năng vận hành tốt đến không ngờ. Đó là kết quả của hàng loạt công nghệ hiện đại, nhất là khối động cơ dầu 2.4L có hàm lượng công nghệ “đậm đặc” nhất phân khúc. Với giá niêm yết 1,062 tỷ đồng và không kèm “lạc”, Mitsubishi Pajero Sport thực sự là một món hời.
Ưu điểm
– Động cơ tốt nhất phân khúc
– Khả năng cách âm cực tốt
– Trải nghiệm êm ái ở mọi vị trí ngồi
Nhược điểm
– Giá bán vẫn cao hơn đối thủ trực tiếp Ford Everest
– Thiếu túi khí
– Thiếu một số trang bị hữu ích (camera lùi, cảm biến lùi)
Vĩ Phạm (Tuoitrethudo)